Nước thải và phân loại nước thải

06/04/2018 14:57

I. Nước và vai trò của nước:

 

Nhờ có nước, sự sống trên trái đất đã được hình thành, tồn tại và phát triển từ xa xưa cho đến nay. Nước chính là nguồn gốc của sự sống. Các quá trình sống được thực hiện rất phức tạp và chúng chỉ có thể diễn ra trong điều kiện có sự tham gia của nước.

 

Nước là chất lỏng trong suốt, không màu, không mùi, không vị, nước có những tính chất vật lý và hoá học khác hẳn so với các chất lỏng khác.

 

Nước là loại chất duy nhất nở ra khi đóng băng, băng lại nổi trên mặt nước, điều này dẫn đến hiện tượng phân tầng nhiệt trong các hồ và biển cả.

 

Nhiệt dung riêng của nước lớn nhất so với mọi chất lỏng và chất rắn nên quá trình đun nóng và làm nguội nước cũng lâu hơn. Chính vì thế, sự sống diễn ra trong nước không bị biến động đột ngột về nhiệt.

 

Nhiệt hóa hơi của nước cũng cao nhất so với tất cả các chất lỏng khác. Do đó, hơi nước đã tích luỹ một lượng nhiệt lớn và giải phóng khi ngưng tụ. Vì vậy, nước là yếu tố chính ảnh hưởng đến khí hậu toàn cầu.

 

Về mặt hoá học, nước là hợp chất có khả năng tham gia vào nhiều loại phản ứng. Nước hoà tan các chất nhiều hơn bất kỳ một dung môi nào khác. Nước cũng là tác nhân tham gia vào nhiều phản ứng hoá học. Nước hoà tan khí Ôxy nhiều hơn bất kỳ chất lỏng nào (1 lít nước ở 200C hoà tan được 31 ml khí Ôxy). Vì thế, sự sống xuất hiện trong lòng ao, hồ, sông ngòi, biển cả và đáy đại dương.

 

Nước có mặt trong các cơ thể sống và mang dinh dưỡng đến tất cả các tế bào sống. Có thể nói, nước tham gia vào việc vận chuyển tất cả các chất tan đi khắp sinh quyển.

 

Chu trình vận động của nước trong tự nhiên diễn ra theo một vòng tuần hoàn. Hơi nước bốc lên từ đại dương được không khí mang vào đất liền hoà cùng với hơi nước bốc lên từ ao, hồ, sông suối và sự thoát nước từ thực vật, động vật đã ngưng tụ tạo thành mưa hoặc tuyết rơi xuống mặt đất, lượng nước còn lại chủ yếu theo các nguồn nước mặt hoặc nước ngầm chảy ra biển và đại dương.

 

Nước là nguyên liệu đặc biệt, không chất nào có thể thay thế được. Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Tổng trữ lượng nước trên trái đất rất lớn (1.386 triệu km3), nhưng nước ngọt và nước sạch dùng cho con người thì có hạn vì sự tái tạo lại dường như phân bố không đều và không kịp cho nhu cầu sử dụng. Nước ngọt chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng lượng nước trên trái đất; trong đó nằm dạng băng 77,22%, nước ngầm 22,42%, hồ đầm 0,35%, sống suối 0,01% lượng nước ngọt. Nguồn nước ngầm thường có xu hướng giảm do khai thác nhiều mà không được bổ sung kịp thời.

 

Con người phải dùng nước cho sinh hoạt và sản xuất. Trong đời sống, động vật có thể chết nếu bị mất từ 10% đến 20% lượng nước trong cơ thể. Trung bình mỗi ngày, một người cần đưa vào cơ thể (qua ăn, uống nước) từ 2,5 đến 4 lít nước, còn nước dùng cho sinh hoạt của một người lại lớn hơn nhiều. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu nước cho sinh hoạt càng tăng lên. Nhu cầu nước dùng để sản xuất ra một tấn bún hoặc bánh phở trung bình cần 10 m3 nước, sản xuất một tấn thép cần khoảng 25 m3, còn sản xuất 1 tấn giấy cần tới 100 m3 nước.

 

II. Nước thải:

 

Hiến chương Châu Âu đã định nghĩa nước ô nhiễm như sau: “Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã”.

 

Theo Tiêu chuẩn Việt Nam 5980-1995 và ISO 6107/1-1980: Nước thải là nước đã được thải ra sau khi đã sử dụng hoặc được tạo ra trong một quá trình công nghệ và không còn giá trị trực tiếp đối với quá trình đó.

 

Người ta còn định nghĩa nước thải là chất lỏng được thải ra sau quá trình sử dụng của con người và đã bị thay đổi tính chất ban đầu của chúng. Thông thường nước thải được phân loại theo nguồn gốc phát sinh ra chúng. Đó cũng là cơ sở trong việc lựa chọn các biện pháp giải quyết hoặc công nghệ xử lý.

 

* Nước thải sinh hoạt: là nước thải từ các khu dân cư, khu vực hoạt động thương mại, khu vực công sở, trường học và các cơ sở tương tự khác.

 

* Nước thải công nghiệp (hay còn gọi là nước thải sản xuất): là nước thải từ các nhà máy đang hoạt động hoặc trong đó nước thải công nghiệp là chủ yếu.

 

* Nước thấm qua: là lượng nước thấm vào hệ thống ống bằng nhiều cách khác nhau, qua các khớp nối, các ống có khuyết tật hoặc thành hố ga hay hố xí.

 

* Nước thải tự nhiên: nước mưa được xem như nước thải tự nhiên ở những thành phố hiện đại, chúng được thu gom theo hệ thống riêng.

 

* Nước thải đô thị: nước thải đô thị là một thuật ngữ chung chỉ chất lỏng trong hệ thống cống thoát của một thành phố, thị xã; đó là hỗn hợp của các loại nước thải trên.

 

Tính chất đặc trưng của nước thải sinh hoạt và nước thải đô thị được trình bày ở bảng I.

 

Bằng trực giác, con người có thể nhận thấy được các chất hoà tan trong nước thải có hàm lượng tương đối cao. Nước thải có những biểu hiện đặc trưng sau:

 

* Độ đục:

 

Nước thải không trong suốt. Các chất rắn không tan tạo ra các huyền phù lơ lửng. Các chất lỏng không tan tạo dạng nhũ tương lơ lửng hoặc tạo váng trên mặt nước. Sự xuất hiện của các chất keo làm cho nước có độ nhớt.

 

* Màu sắc:

 

Nước tinh khiết không màu. Sự xuất hiện màu trong nước thải rất dễ nhận biết. Màu xuất phát từ các cơ sở công nghiệp nói chung và các sơ sở tẩy nhuộm nói riêng. Màu của các chất hoá học còn lại sau khi sử dụng đã tan theo nguồn nước thải. Màu được sinh ra do sự phân giải của các chất lúc đầu không màu. Màu xanh là sự phát triển của tảo lam trong nước. Màu vàng biểu hiện của sự phân giải và chuyển đổi cấu trúc sang các hợp chất trung gian của các hợp chất hữu cơ. Màu đen biểu hiện của sự phân giải gần đến mức cuối cùng của các chất hữu cơ.

 

* Mùi:

 

Nước không có mùi. Mùi của nước thải chủ yếu là do sự phân huỷ các hợp chất hữu cơ trong thành phần có nguyên tố N, P và S. Xác của các vi sinh vật, thực vật có Prôtêin là hợp chất hữu cơ điển hình tạo bởi các nguyên tố N, P, S nên khi thối rữa đã bốc mùi rất mạnh. Các mùi: khai là Amôniac (NH3), tanh là các Amin (R3N, R2NH-), Phophin (PH3). Các mùi thối là khí Hiđrô sunphua (H2S). Đặc biệt, chất chỉ cần một lượng rất ít có mùi rất thối, bám dính rất dai là các hợp chất Indol và Scatol được sinh ra từ sự phân huỷ Tryptophan, một trong 20 Aminoaxit tạo nên Prôtêin của vi sinh vật, thực vật và động vật.

 

* Vị:

 

Nước tinh khiết không có vị và trung tính với độ pH=7. Nước có vị chua là do tăng nồng độ Axít của nước (pH<7). Các Axít (H2SO4, HNO3) và các Ôxít axít (NxOy, CO2, SO2) từ khí quyển và từ nước thải công nghiệp đã tan trong nước làm cho độ pH của nước thải giảm xuống. Vị nồng là biểu hiện của kiềm (pH>7). Các cơ sở công nghiệp dùng Bazơ thì lại đẩy độ pH trong nước lên cao. Lượng Amôniac sinh ra do quá trình phân giải Prôtêin cũng làm cho pH tăng lên. Vị mặn chát là do một số muối vô cơ hoà tan, điển hình là muối ăn (NaCl) có vị mặn.

 

* Nhiệt độ:

 

Nhiệt độ của nước sẽ thay đổi theo từng mùa trong năm. Nước bề mặt ở Việt Nam dao động từ 14,3-33,50C. Nguồn gốc gây ô nhiễm nhiệt độ chính là nhiệt của các nguồn nước thải từ bộ phận làm lạnh của các nhà máy, khi nhiệt độ tăng lên còn làm giảm hàm lượng Ôxy hoà tan trong nước.

 

* Độ dẫn điện:

 

Các muối tan trong nước phân li thành các ion làm cho nước có khả năng dẫn điện. Độ dẫn điện phụ thuộc vào nồng độ và độ linh động của các ion. Do vậy, độ dẫn điện cũng là một yếu tố đánh giá mức độ ô nhiễm nước.

 

* DO (lượng Ôxy hoà tan):

 

DO là lượng Ôxy hoà tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp của các sinh vật sống dưới nước (cá, lưỡng thể, thuỷ sinh, côn trùng…). DO thường được tạo ra do sự hoà tan từ khí quyển hoặc do quang hợp của tảo. Nồng độ Ôxy tự do trong nước nằm khoảng 8-10 mg/l và dao động mạnh phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ, sự phân huỷ hoá chất, sự quang hợp của tảo… Khi nồng độ DO thấp, các loài sinh vật trong nước giảm hoạt động hoặc chết. Do vậy, DO là một chỉ số quan trọng để đánh giá sự ô nhiễm nước của các thuỷ vực.

 

* Chỉ tiêu vi sinh vật:

 

Nước thải chứa một lượng lớn các vi khuẩn, vi rút, nấm, rêu tảo, giun sán... Để đánh giá mức độ nhiễm bẩn bởi vi khuẩn, người ta đánh giá qua một loại vi khuẩn đường ruột hình đũa điển hình có tên là Côli (NH4Cl). Côli được coi như một loại vi khuẩn vô hại sống trong ruột người, động vật. Côli phát triển nhanh ở môi trường Glucoza 0,5% và Clorua amoni 0,1%; Glucoza dùng làm nguồn năng lượng và cung cấp nguồn Cacbon, Clorua amoni dùng làm nguồn Nitơ. Loại có hại là vi rút. Mọi loại vi rút đều sống ký sinh nội tế bào. Bình thường khi bị dung giải, mỗi con Côli giải phóng 150 con vi rút.

 

Trong 1 ml nước thải chứa tới 1.000.000 con vi trùng Côli.

 

Ngoài vi khuẩn ra, trong nước thải còn có các loại nấm meo, nấm mốc, rong tảo và một số loại thuỷ sinh khác... Chúng làm cho nước thải nhiễm bẩn sinh vật.

 

III. Các phương pháp xử lý nước thải:

 

* Xử lý cơ học:

 

Phương pháp xử lý cơ học sử dụng nhằm mục đích tách các chất không hoà tan và một phần các chất ở dạng keo ra khỏi nước thải.

 

Phương pháp xử lý cơ học có thể loại bỏ được đến 60% các tạp chất không hoà tan trong nước thải sinh hoạt và giảm BOD (nhu cầu Ôxy sinh hoá) đến 20%.

 

Thông thường, xử lý cơ học chỉ là giai đoạn xử lý sơ bộ trước khi cho quá trình xử lý sinh học.

 

* Phương pháp xử lý hoá - lý:

 

Thực chất của phương pháp xử lý hoá - lý là đưa vào nước thải chất phản ứng nào đó để gây tác động với các tạp chất bẩn, biến đổi hoá học, tạo thành chất khác dưới dạng cặn hoặc chất hoà tan nhưng không độc hại, không gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ phương pháp trung hoà nước thải chứa Axít, Bazơ, phương pháp Ôxy hoá...

 

Phương pháp hoá lý có thể là giải pháp cuối cùng hoặc là giai đoạn xử lý sơ bộ cho giai đoạn tiếp theo.

 

* Phương pháp xử lý sinh học:

 

Phương pháp này thường dùng để loại các chất phân tán nhỏ, keo và hữu cơ hoà tan (đôi khi cả vô cơ) khỏi nước thải. Nguyên lí của phương pháp là dựa vào hoạt động sống của các vi sinh vật có khả năng phân huỷ, bẻ gẫy các đại phân tử hữu cơ thành các chất đơn giản hơn, đồng thời chúng cũng sử dụng các chất có trong nước thải làm nguồn dinh dưỡng như Cacbon, Nitơ, Phôtpho, Kali...

 

Quá trình xử lý sinh học trong điều kiện nhân tạo có thể đạt mức hoàn toàn (xử lý sinh học hoàn toàn) với BOD giảm tới 90-95% và không hoàn toàn với BOD giảm tới 40-80%.

 

Phương pháp sinh học là phương pháp triệt để nhất, nó tạo ra những sản phẩm thân thiện với thiên nhiên hoặc biến đổi những chất có hại trở thành hữu ích. Ngày nay, phương pháp sinh học đã và đang được nghiên cứu, áp dụng để xử lý ô nhiễm môi trường.

Theo bản tin Sở Tài nguyên